Thứ Hai, 22 tháng 8, 2016

Mối tình bi thảm của con gái Tổng bí thư Lê Duẩn - Phần 2



Mối tình bi thảm của con gái Tổng bí thư Lê Duẩn - Phần 2


Phan Độc Lập chuyển ngữ

Hồi ký của Viện sỹ Viện Hàn lâm Khoa học Nga Viktor Maslov





Ảnh chụp trước khi Lê Duẩn chia tay vào miền Nam công tác năm 1964. Từ trái qua: con gái Lê Vũ Anh, bà Nguyễn Thụy Nga và hai con trai Lê Kiên Thành, Lê Kiên Trung – Ảnh tư liệu gia đình



(Xem Phần 1 tại đây)


V.

Khi nàng đi ra ngoài để đến điểm dừng xe buýt, một chiếc xe “Volga” màu đen chầm chậm chạy theo nàng, rồi dừng lại cách nàng một khoảng không xa. Nàng bước thêm vài bước,người lái xe ngay lập tức nhấn ga. Cô vội chạy nhanh thì chiếc “Volga” cũng tăng tốc thêm. Không ai biết điều gì sẽ xảy ra nếu nàng không kịp chạy đến bến và lên kịp chiếc xe buýt chạy điện vừa dừng. Về đến nhà, nàng xuất hiện trước mặt tôi với nước mắt lưng tròng. Nàng kể lại với tôi nàng đã sợ hãi như thế nào khi bắt đầu thấy chiếc xe đuổi theo nàng:

– Bây giờ em đã tin chắc rằng, họ muốn bắt và đưa em về Việt Nam!

– Sao em bảo rằng ba mình sẽ không làm điều đó.

– Như sự việc xảy ra hôm nay, em đã nhận ra rằng ba em đã sẵn sàng đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân. Điều này có nghĩa, em sẽ phải cam chịu số phận thôi.

Tôi an ủi, vỗ về động viên nàng, còn nàng vừa khóc, vừa liên tục lắp bắp nói: “Em đã chết! em đã chết!”

Ngày hôm sau, nàng gọi điện thoại cho chị Muội. Chị nàng nói rằng ba đã bị sốc và rất lo lắng vì chuyện của nàng đã xảy ra như vậy. Cả đêm ông đã không thể ngủ được và muốn làm lành, tha thứ cho nàng. Nàng kiên quyết trả lời chị: “Tốt hơn hết là ba, má và chị nên chúc mừng chúng em. Chúng em đã có một cô con gái mới sinh.” Chị gái nàng không tin thực tế đó, cho rằng nàng bịa ra chuyện để gây sức ép cho ba phải thừa nhận hôn nhân của nàng với tôi. Nàng và chị Muội đã thỏa thuận gặp nhau tại nhà nghỉ ngoại ô của chúng tôi và cả hai sẽ cùng đi đến gặp Lê Duẩn. Khi đến nhà tôi, trông thấy Lena, Muội đã bật khóc và đề nghị nàng nên ở nhà, chị sẽ đến gặp ba một mình. Chị sẽ kể tất cả mọi chuyện cho Lê Duẩn. Lê Duẩn một lần nữa lại bị sốc khi biết về sự ra đời cháu gái ngoại của ông.

Trong một thời gian dài sau này, Lê Duẩn không thể chấp nhận sự thật, rằng con gái mình đã không vâng lời, vi phạm luật pháp và kết hôn với người nước ngoài. Ông thỉnh cầu Suslov, người gần gũi quen biết nhất của ông trong Đảng Cộng sản Liên Xô với một yêu cầu giúp tìm ra quan hệ thực chất của nàng với tôi – mối tình thoảng qua theo cảm xúc nhất thời hay tình yêu thực sự. Sau đó, KGB đã cử một “chuyên gia về tình yêu.” tiếp cận chúng tôi. Ông đã bí mật đi lang thang xung quanh nhà, nơi chúng tôi sống, quan sát, nghe trộm, thu thập thông tin, và đã buộc phải thừa nhận: đó là tình yêu thực sự.

Mặc dù biết chúng tôi yêu nhau thật sự, nhưng Lê Duẩn vẫn không tha thứ cho con gái mình. Tôi đã nghe nói rằng,trong gia đình, Lê Duẩn đã cấm không cho ai được nói chuyện về nàng, thậm chí chỉ là nhắc đến tên nàng. Nhưng tất cả quà tặng thủa bé của nàng đều được ông sắp xếp, giữ gìn cẩn thận trên bàn làm việc của mình. Khi một trong số những món quà đó bị ai đó lấy mất, Lê Duẩn đã làm ầm ỹ cả nhà, tạo nên một scandal nho nhỏ. Điều này có nghĩa là trong sâu thẳm lòng mình, ông vẫn rất yêu quý nàng, thương nàng như xưa mà không hề chối bỏ nàng…

Nàng đã thay đổi rất nhiều sau sự ra đời của bé Lena. Trước đó nàng luôn tỏ ra can đảm, độc lập, còn bây giờ nàng không ngừng run lên vì sợ hãi. Lúc nào nàng cũng có cảm giác như đang trong tình trạng chờ đợi các cuộc tấn công, bắt cóc, nàng sợ những chiếc xe màu đen và thậm chí nàng sợ cả các đồng hương của mình. Nàng cho biết, với họ tốt hơn hết là không nên gặp mặt, không để bị lôi kéo vào cuộc tụ họp, để dành thời gian tập trung vào làm việc, nghiên cứu. Một thời gian ngắn, người thân của nàng xa lánh, tẩy chay nàng, gọi nàng là kẻ phản bội. Họ thường xuyên gọi điện thoại và gửi thư với thái độ giận dữ. Nàng đã phải chịu áp lực lớn, nàng tin rằng, nàng đã gây ra một tội lỗi khủng khiếp, và nàng sẽ bị trừng phạt.

Trước đây nàng không thực sự muốn ở trong căn phòng với những khe hở lớn như pháo đài tôi đã xây, còn bây giờ nàng lại luôn yêu cầu tôi khóa chặt cửa và nàng ở trong phòng cùng với Lena suốt cả thời gian khi tôi đi vắng vì công việc ở Moscova. Nàng luôn giữ bên mình khẩu súng săn của tôi. Nàng nói rằng căn phòng này là nơi an toàn nhất trong cả nước. Nàng không còn sợ bị đuổi bắt từ các đường phố, từ bên trong phòng này nàng có thể thoải mái để bắn ra ngoài. Rõ ràng, nàng có thể đang hồi tưởng về tuổi trẻ du kích của mình.

Có một lần nàng làm tôi hoảng sợ suýt chết. Nàng biến mất cùng với Lena. Tôi lái xe về đến nhà nghỉ, thấy vắng tanh không có ai ở đó cả. Tôi thiếu chút nữa thì lên một cơn đau tim, nghĩ rằng họ đã bị bắt cóc. Rồi nàng bất chợt hiện ra và nở một nụ cười rõ tươi.

Tôi đã có cuộc trò chuyện với một người lính từ một tiểu đoàn xây dựng. Cậu ấy muốn bán cho tôi một khẩu súng lục bắn bê tông, từ đó có thể chụp chốt vào tường bê tông. Tôi hỏi khoảng cách bắn được bao xa. Người lính nghe tôi nói vậy thì tỏ ra sốt sắng: “Bác cần súng bắn được với khoảng cách xa à? Tôi có thể bán cho bác súng trường tự động kèm với đạn”. Tất nhiên, tôi từ chối cậu lính. Khi tôi vừa cười vừa nói với nàng về cuộc trò chuyện đó với người lính, nàng đột nhiên nhận thấy tiếc rẻ về cơ hội hiếm có đó:

– Sao vậy, anh phải mua chứ.

– Có mà điên? Để cho người ta bắt vào tù à.

– Nhưng có nó em sẽ bình tĩnh hơn. Anh không hiểu à, Ba em sẽ làm mọi chuyện có thể. Cuộc hôn nhân của chúng ta làm suy yếu quyền lực của ông ấy trong Đảng, tiếp tay cho các đối thủ chính trị của ông. Nếu họ hạ bệ ba em, đất nước sẽ bị sụp đổ.

– Ba em yêu thương em và sẽ không bao giờ phá hoại hạnh phúc của em đâu.

– Ba yêu thương em, em cũng yêu ba em nhiều. Nhưng điều quan trọng nhất đối với ba em là lợi ích của đất nước. Em luôn biết em phải đi đến điểm dừng nào. Trước đây khi chưa có Lena, em không sợ gì cả, nhưng bây giờ em luôn sợ hãi. Nếu người ta bắt em đi, một mình anh sẽ không thể chăm sóc tốt cho con.

Ngay sau đó bé Lêna đã bị ốm, phải nhập viện. Trước khi vào bệnh viện cùng nằm để chăm sóc bé, nàng đã viết cho tôi một bản tuyên bố chính thức: “Nếu tôi bị bắt mang đi một mình hoặc cùng con gái và đưa đến Đại sứ quán Việt Nam, mọi người cần phải biết, điều này được thực hiện bằng vũ lực, trái với ý muốn của tôi, bất cứ điều gì do người thân trong gia đình tôi hoặc đại sứ quán phát ngôn đều không có giá trị. Tôi muốn sống với chồng Viktor Maslov ở Liên Xô, và tôi muốn chồng tôi nuôi dưỡng con gái của chúng tôi trưởng thành và thấm nhuần nền văn hóa Nga”. Tôi cho cất giữ tờ giấy này vào một nơi an toàn.

Phần lớn thời gian chúng tôi sống trong nhà nghỉ ngoại ô và hầu như lúc nào cũng ở bên nhau. Tôi bắt đầu tham gia giảng dạy ít hơn, cố gắng dành thời gian nghiên cứu, làm việc tại nhà. Vào ban đêm, đôi khi tôi ngắm nhìn nàng ngủ và tôi tự nhủ, “Lạy Chúa, tại sao tôi hạnh phúc thế này? Tôi thật không xứng đáng”. Cũng giống như tôi luôn cảm thấy có quá ít thời gian được ở bên nàng…

Ban đầu, tôi sợ rằng nàng buồn vì nhớ gia đình và quê hương. Một lần bạn tôi là Viện sĩ Mishchenko đã hỏi cô về điều đó. “Em chỉ nhớ khi có khách đến nhà chơi” – với sự thẳng tính của mình nàng trả lời. Nàng không thích các nhóm bạn ồn ào, những cuộc tranh luận vô bổ. Tôi cảm nhận được nàng khó chịu khi nhìn thấy cảnh bạn bè tôi say rượu vui vẻ, mặc dù nàng không thể hiện ra ngoài sự không hài lòng, nếu có ai mời uống rượu thì nàng nhẹ nhàng từ chối. Nói chung là nàng không thích uống rượu.

Cùng sống với nàng tôi đã tự nhận thấy mình thay đổi nhiều, trẻ hơn, dễ chừng phải đến 15 tuổi. Chưa bao giờ tôi lại làm việc đạt hiệu quả lớn như lúc này. Chúng tôi hầu như không bao giờ đi đến nơi nào khác (Các nhân viên Ban quốc tế của Ủy ban Trung ương Cộng sản Liên Xô đã khuyến cáo chúng tôi không nên xuất hiện ở những nơi công cộng), nhưng không cảm thấy mình có gì đó sai trái. Các bạn gái và em trai thường vẫn đến thăm nàng. Nàng vẫn đến trường Đại học Tổng hợp Moscova, cố gắng hoàn thành chương trình nghiên cứu sau đại học. Nàng có khả năng làm việc tốt hơn nhiều so với tôi, và nếu nàng tham gia vào nghiên cứu khoa học, tất cả mọi thứ hóa ra không đến nỗi quá phức tạp như tôi tưởng. Nàng đã bảo vệ luận án thành công và trở thành phó tiến sỹ khoa học vật lý và toán học.

Một lần, tôi nhớ, chúng tôi đã đến dự xem buổi hòa nhạc của Vladimir Vysotsky, được tổ chức trong trường Đại học chế tạo máy điện tử Moscova (МИЭМ). Chúng tôi ở xa, không ngồi ở hàng ghế đầu, nhưng sau khi biểu diễn xong ca sỹ ngay lập tức đã đi tới gần nàng. Vysotsky thấy nàng khi anh hát và suốt thời gian biểu diễn chỉ nhìn nàng. Nàng ngạc nhiên và nghĩ rằng, có lẽ ca sĩ nhầm lẫn với ai đó. Và Vysotsky giãi bày tâm sự khi khen nàng dễ thương, dạt dào tình cảm, và muốn được liên lạc sau buổi biểu diễn này, nói ngắn gọn, ca sỹ cư xử như thể không có tôi ngồi bên cạnh nàng. Tôi đã cố gắng để giải vây cho nàng. Khi ca sỹ hỏi nàng có hiểu hết tất cả nội dung trong bài hát của mình không, tôi trả lời thay cho nàng:

– Vâng, tôi là chồng đang ngồi cùng với cô ấy. Tôi có thể giải thích cho vợ tôi hiểu. Một cách ngẫu nhiên, chúng tôi với gia đình anh thực tế là láng giềng của nhau tại khu nhà nghỉ ngoại ô đấy. Hãy đến thăm vợ chồng tôi, chúng tôi sẽ rất vui mừng được chào đón.

– Tôi đến đó rất thường xuyên, – Vysotsky ngượng ngùng – đó là Marina thích nhà nghỉ ngoại ô, còn tôi không thực sự thích lắm. Vâng và không bao giờ.

VI.

Sau khi hòa giải với gia đình Vũ Anh quyết định giới thiệu cháu gái lớn với cha. Khi Lê Duẩn đến Moskva lần sau đó, nàng đem theo Lena đến gặp ông. Ông ngay lập tức yêu mến cháu. Ông đề nghị để Vũ Anh và cháu ở lại cùng ông cho đến khi ông về nước. Lúc đầu cháu bé còn lạ, nhưng dần dần quyến luyến với ông ngoại. Ông chủ ý giấu tất cả chuối trong nhà để tự mình đãi Lena – mong chiếm được cảm tình của đứa cháu.

Lê Duẩn luôn yêu cầu đưa Lena đến gặp ông mỗi lần đến Moskva. Còn gặp tôi thì dứt khoát không muốn. Còn nhớ tôi đưa Vũ Anh và con gái đến thăm mẹ vợ ở cái đatra cũ của Khrusov ở Rublebka và phải đợi trong xe, trong khi các cháu đang ở bên ông. Lê Duẩn đưa Lena và Vũ Anh đi xem xiếc rồi đưa họ đi theo dự lễ khai mạc Olimpic Moskva. Con bé lên cơn đỏng đảnh đúng lúc long trọng nhất, kêu to: “Mẹ ơi, con muốn đi đái!”.

Lần khác trong lúc ăn trưa ngồi cạnh Lê Duẩn, đúng lúc đang nói chuyện về bắt đầu chiến tranh chống chế độ Khmer đỏ ở Campuchia, Lena bỗng nhiên hỏi: “Ông ơi, thế ông không bị gãy răng chứ?”.

Không biết có sự liên tưởng nào xuất hiện trong đầu con bé, để đúng lúc nói chuyện gay cấn nhất lại hỏi như vậy? Ở nhà chúng tôi cũng trao đổi về cuộc chiến tranh với chế độ Polpot – Ieng Sari. Có thể Lena nhớ lại câu mà tôi đã nói khi nào đó? Vũ Anh có suy nghĩ khá tốt về Ieng Sary, nhân vật thứ hai của chế độ ở Campuchia. Có thể trong cuộc nói chuyện ở buổi tiếp khách Việt Nam đó đã vang lên cái tên này, và gợi lại sự liên tưởng nơi con bé? Người phiên dịch hiểu câu hỏi theo nghĩa bóng, nín lặng, nhưng cố gắng truyền đạt tối đa ý nghĩa của câu hỏi. Lê Duẩn không hề bối rối. Ông cắn chặt hàm răng chắc khỏe của mình và nhe ra với Lena. Tình huống được giải tỏa.

Vũ Anh cũng rất trực tính và tiết lộ các “bí mật” xô-viết cho cha một cách đơn giản. Hơn nữa, ông ấy cũng biết cách để hỏi. Một hôm người cha nói rằng theo lời Brejnev đất nước vừa thu hoạch một vụ bông kỷ lục. “Vậy mà vải trải giường nhà con thủng hết rồi”, Vũ Anh nhận xét. Ngay ngày hôm sau cán bộ phân ban Việt Nam trong Ban quốc tế của BCH TW ĐCSLX dẫn Vũ Anh đến gian hàng số 200 nổi tiếng của GUM, nơi chỉ bán cho các khách hàng chọn lọc. Thế là chúng tôi có đồ trải giường mới.

Vũ Anh không muốn lợi dụng sự ưu đãi, nhưng dù sao vẫn mua đồ ở gian hàng cấm này của GUM, và tôi thường nhận được các đơn hàng mà nàng đặt. Nàng không nhận của cha dù một xu nhỏ, ngay cả khi học ở MGU. Chính quyền chúng ta đề nghị cấp cho nàng một căn hộ rộng rãi ngay trung tâm Moskva, nhưng nàng từ chối. Chỉ nhận một căn hộ ba phòng bình thường trong một tòa nhà lắp ghép ở Beliaevo. Để phòng khi nhỡ có việc chúng tôi đột ngột phải chia tay, thì vẫn có chỗ ở và làm việc.

Nhưng chúng tôi sống hòa thuận cùng nhau. Trong suốt thời gian chung sống chỉ cãi nhau vài lần, đấy là Vũ Anh cho rằng thế. Lần đầu tiên là khi Vũ Anh giận dữ vì tôi chở trên xe hai cô gái, cho dù trong xóm chúng tôi ở việc cho đi nhờ vẫn hay xảy ra. Nhưng Vũ Anh lại tức giận.

Lần thứ hai thì xảy ra một chuyện nói chung là ngớ ngẩn. Buổi chiều tôi nghe “đài địch”. Vũ Anh ngồi cùng tôi, nhưng nàng không hiểu tiếng Anh, do vậy nhanh chóng đứng dậy và đi vào phòng trẻ con. Tôi nghĩ lũ trẻ đã đi ngủ, và khép cửa thật chặt để khỏi đánh thức chúng. Sau đó tôi cũng thiếp đi. Vũ Anh ra khỏi phòng trẻ, kéo cửa, nhưng không mở được. Nàng cho rằng tôi không muốn gặp nàng, lấy làm khó chịu và sáng hôm sau bỏ đi đến nhà chị Muội. Đến chiều Vũ Anh trở về, và chúng tôi làm lành. Nàng không thể sống trong tình trạng xung đột với tôi.

Mẹ nàng, bà Bảy Vân, cố gắng làm cho con gái chống lại tôi, có lần nói ra sự không hài lòng với việc chúng tôi sống tằn tiện. Vũ Anh giải thích cho mẹ: “Bao nhiêu tiền anh ấy gần như dành cho đatra. Luôn cứ phải mua hay sửa cái gì đó. Con không thể từ chối anh ấy trong chuyện này. Những người đàn ông khác họ uống rượu hết tiền, còn anh ấy thì xây dựng”.

Vũ Anh giành lấy việc chăm sóc cho mẹ tôi, khi bà bị đột quỵ, và nàng rất biết cách chăm sóc. Có lẽ nàng đã từng làm y tá trong thời gian chiến tranh.

Mùa thu năm 1980 Vũ Anh lại mang thai, tôi vốn mong có một gia đình lớn. Vào tháng năm năm 1981 mẹ tôi khá hơn, người ta cho bà ra viện. Chúng tôi chuyển ra đatra. Tôi thuê một cô y tá, cô ấy ngủ bên cạnh người ốm và giúp bà đi lại và nói năng. Trẻ con thì có bảo mẫu, được đưa từ Việt Nam sang theo yêu cầu của Vũ Anh, để lũ trẻ có thể nói chuyện với chị bằng tiếng mẹ đẻ.

Lê Duẩn chuyển cho nàng một món quà – một con đồi mồi. Vũ Anh rất hoảng hốt khi nhìn thấy món quà cha tặng:

– Đồi mồi này người ta tặng cả đôi. Đây là biểu tượng của tình yêu và cuộc sống gia đình hạnh phúc. Một con đồi mồi – đây là dấu hiệu xấu. Làm sao mà cha lại không nghĩ đến điều ấy.

– Ông ấy không cần nghĩ đến những thứ ngu ngốc ấy. Cha em là người cộng sản.

– Vâng nhưng ông tôn trọng truyền thống và biết rằng đây là dấu hiệu của cái chết. Đã xảy ra chuyện gì rồi …

Kết quả siêu âm cho biết lần này chúng tôi sẽ có con trai. Vũ Anh cảm thấy người không khỏe, tôi đặt trước chỗ cho nàng ở nhà hộ sinh “Kremlin” của Cục 4 trên phố Vesnina. Vũ Anh đã sinh Tania ở đó và nói chung thấy hài lòng chỗ này. Hồi ấy Vũ Anh có phòng riêng, có TV và điện thoại, nàng có thể bình tĩnh viết báo khoa học. Bác sĩ hồi ấy đã sửng sốt: “Một phụ nữ tuyệt làm sao! Nằm nhà hộ sinh còn làm khoa học!”.

Nhưng nàng không muốn nằm tại bênh viện này, sợ hãi điều gì đó. Một lần nàng nói sẽ chết khi sinh nở:

– Ở Việt Nam sắp có bầu cử. Để bầu cha em, họ sẽ làm tất cả.

– “Họ” là ai?

– Là những người luôn can thiệp vào tình yêu của chúng ta.

Tôi không tin vào linh cảm, cho rằng đó là những lo lắng của các phụ nữ mang thai.

Đêm mùng sáu sang ngày mùng bảy tháng sáu Vũ Anh bắt đầu đau. Để an tâm tôi gọi liền hai xe cấp cứu, từ Troitsk và từ Moskva – phòng khi bỗng nhiên có việc gì trục trặc. Xe từ Troitsk lao đến trước, nhưng nó chỉ chở được Vũ Anh đến Podolsk. Tôi đề nghị họ chở nàng vào Moskva, đến nhà hộ sinh số 25, gần nhà chúng tôi trên phố Dmitri Ulianov. Khi đến nơi mới rõ ra một nửa tòa nhà đang phải sửa chữa.

Người trực nhận giấy tờ của Vũ Anh, nhìn thấy nàng đăng ký ở Cục 4, liền gọi ngay xe cấp cứu từ đó. Vậy là người ta vẫn chở Vũ Anh đến phố Vesnina. Ở đấy, các bác sĩ lập tức khám và nói, tất cả đều ổn, quá trình sinh nở bình thường. Tôi chuẩn bị ngồi chờ ở phòng tiếp nhận thì sực nhớ mẹ tôi hầu như đang ở ngoài đatra có một mình. Cô y tá chúng tôi đã cho nghỉ hè, còn chị bảo mẫu người Việt không nói được tiếng Nga. Tôi liền lao về đó. Tại đatra mọi việc đều bình thường, nhưng mẹ nói rằng xe cấp cứu từ Moskva không tới. Thật lạ lùng.

Vào 7 giờ sáng Vũ Anh sinh bé trai. Người ta gọi điện cho tôi từ nhà hộ sinh thông báo điều đó, tôi hỏi tình trạng của người mẹ ra sao, đầu dây bên kia im lặng. Sau một khoảng im lặng dài, họ đề nghị tôi tới và nói chuyện với bác sĩ. Ở Moskva tôi được biết rằng Vũ Anh bị chảy máu rất nhiều, chưa cầm được. “Chúng tôi làm tất cả những gì có thể – Bác sĩ nói – Sắp tới họ sẽ chuyển máu tới. Ông tốt nhất nên quay về nhà. Đợi ở đây là vô nghĩa”.

Tôi chạy đến các bác sĩ quen để hỏi ý kiến. Họ không vui, nói rằng trong những trường hợp như vậy phải lập tức cắt bỏ tử cung. Nhưng các bác sĩ Kremlin có lẽ sợ lãnh về mình trách nhiệm đó, bệnh nhân không phải nhân vật bình thường.

Tôi quay trở về nhà hộ sinh. Lúc ấy người ta đã phẫu thuật cho Vũ Anh. Bác sĩ phẫu thuật chính của Cục 4 được mời đến xử lý cho nàng. Khi ông vừa ra khỏi phòng mổ, tôi lao đến:

– Cô ấy sẽ không chết?

– Cơ thể trẻ trung. Chúng ta hi vọng vào điều tốt nhất …

Vài tiếng sau đó Vũ Anh qua đời. Người ta cho phép tôi vào phòng bệnh. Vũ Anh nằm trên giường, phủ tấm ra – trông nàng xinh đẹp làm sao, như đang ngủ. Một cục gì chẹn lấy cuống họng tôi, tôi quỳ xuống hôn tay người tôi yêu dấu. Tấm ra phủ di chuyển, hé lộ thân thể vợ tôi, phủ đầy các vết xanh đỏ. Tôi kêu lên vì sợ hãi. Mọi người chạy đến bên, đỡ lấy tôi và đưa ra hành lang …

Lần cuối cùng tôi nhìn thấy Vũ Anh là ở chỗ hỏa táng – mười ngày sau đó. Quyết định hỏa táng không phải do tôi đưa ra. Nói chung không ai hỏi ý kiến tôi muốn an táng vợ mình ra sao. Tại sao phải đợi lâu thế vẫn mãi là câu hỏi. Có thể Lê Duẩn đã bí mật đến Moskva. Tôi không gặp ông, còn bà mẹ thì bay sang ngay. Tro cốt của Vũ Anh được đưa về Việt Nam, bình tro được giữ ở nhà bà Bảy Vân, trong một căn phòng riêng.

Sau cái chết của Vũ Anh các cháu được bà cụ mẹ của Bulat, bà Askhen Stepanova yêu quý, đã rất già yếu chăm sóc. Bà cụ ở lại cùng chúng tôi ba tuần. Còn tôi trong thời gian đầu rơi vào một trạng thái quên lãng, mù mờ sao đó. Trí nhớ của tôi từ chối tin vào những gì vừa xảy ra.

Một lần tôi tỉnh dậy giữa đêm trong hoảng hốt. Trái tim bóp nghẹt trong lồng ngực. Tôi mơ thấy một luồng sáng: người ta đã đầu độc Vũ Anh. Tôi chia sẻ phỏng đoán với các bác sĩ. Họ không loại trừ khả năng ấy, nhưng cho rằng các vết xanh đỏ trên da có thể xuất hiện trong trường hợp chảy máu nghiêm trọng. Sau đó nhiều năm, khi nằm điều trị tim tại một bệnh viện tim mạch tôi quan sát thấy người ta đã tiêm geparin cho các bênh nhân để làm loãng máu, và trên người họ cũng xuất hiện những vết đúng như thế. Theo quan điểm của tôi đã xuất hiện thêm một phương án khả tín: việc chảy máu là do tác động cố ý, bằng cách tiêm thứ thuốc đó. Không phải tự nhiên Vũ Anh đã linh cảm thấy tai họa. Và máu đã chảy cạn…

Trong đám tang bà mẹ đau khổ đến mất trí. Bà ấy nói rằng cha của Vũ Anh đã giết con và muốn giúp đỡ tôi – đưa bọn trẻ về Việt Nam. “Không đời nào!” – tôi trả lời. Tôi biếu bà chuỗi hạt đã từng giữ hơi ấm cơ thể của Vũ Anh. Bà ấy nhận nó, là để sau này sẽ trao cho vợ của cháu trai, khi nó lớn lên và cưới vợ.

Tôi che giấu cái chết của Vũ Anh không nói cho những người thân biết. Mẹ tôi rất đau ốm, còn các cháu gái thì quá bé. Mẹ tôi có lẽ cảm thấy điều gì đó, bà bị đột quỵ lần hai, và lần này thì điều trị không lại được. Tôi nói với Lena là Vũ Anh ở trong bệnh viện, và sau đó – rằng mẹ đã đi có việc, nhưng con bé cũng hiểu hết. Một lần nó kéo tôi ra bên và thì thầm hỏi tôi: “Bố ơi, người ta chôn mẹ rồi phải không?”. Lena luôn than thở về nỗi buồn vắng mẹ, nó khóc: “Bố, hãy đi Việt Nam, mua mẹ cho con!”.

Bảy Vân quyết định ở lại Moskva ít lâu. Bà ấy yêu cầu dẫn Tania đến thăm, nói rằng sẽ đưa trả con bé và cô bảo mẫu về nhà vào hôm sau. Nhưng đã không cho về. Hai ngày liền tôi gọi cho mẹ vợ, nhưng người ta không gọi bà ấy nghe điện, viện cớ có công việc quốc gia quan trọng nào đó. Ban đầu tôi không cảm thấy lo lắng đặc biệt, nhưng sau đó hiểu ra rằng bà đang cố thực hiện ý định của mình – lấy lũ trẻ khỏi tay tôi. Tôi tìm được địa chỉ của bà với không ít khó khăn, đem theo một đồng nghiệp biết tiếng Pháp để hỗ trợ và làm phiên dịch, lên đường đòi lại con gái. Bảy Vân không muốn trả lại Tania, ngay cả khi tôi nói rằng mẹ tôi sắp mất và bà cụ muốn vĩnh biệt cháu gái. Tôi buộc phải hứa rằng họ sẽ gặp lại nhau trong lúc chuẩn bị cho tang lễ.

Mẹ tôi mất ngay ngày hôm sau. Mẹ vợ chạy đến ngay: “Các cháu sẽ ở với tôi!”. Tôi phải giải thích rằng các cháu còn đang ốm. Tania thực sự đang bị sốt. Bảy Vân đề nghị thu xếp chữa cho cháu tại căn hộ của mình, nhưng tôi không đồng ý.

Tôi biết rằng bà ta sẽ lại xuất hiện ở đatra vào ngày cử hành tang lễ, lúc tôi không ở nhà, do vậy đã gửi Lena đến chỗ người quen, còn Tania tôi khóa cùng với người cháu của tôi trong căn phòng có các lỗ châu mai, và dặn không được mở cửa cho bất cứ ai, đặc biệt cho bà ngoại nó. Bà bảo mẫu được dặn phải nói là cả hai cháu đang ở nhà các bạn của tôi. Ngay khi tôi vừa rời đến chỗ hỏa táng, Bảy Vân đã xuất hiện ở đatra. Không tìm thấy lũ trẻ, bà ta ra về trong sự tức giận khủng khiếp.

Với đứa con trai, tôi đặt tên nó là Anton, tình hình phức tạp hơn nhiều. Ở nhà hộ sinh họ không trao cháu cho tôi. Họ thông báo rằng do tình trạng sức khỏe của cháu bé, cháu cần ở lại bệnh viện để các bác sĩ chăm sóc. Tôi chỉ làm được giấy chứng sinh cho cháu, và lập tức tiến hành các biện pháp. Tại bệnh viện của BCH trung ương, nơi cháu được chuyển đến từ nhà hộ sinh, cháu đã nhập viện với tên là Anton Maslov: các bạn của tôi đã giám sát tại lối vào bệnh viện để cháu được đăng ký đúng như đã định. Đây là một thắng lợi, không lớn nhưng dầu sao cũng là thắng lợi. Bây giờ đưa con trai tôi ra khỏi biên giới sẽ khó khăn hơn nhiều.

Họ cho phép tôi vào bệnh viện, đi dạo cùng con trai, nhưng bên cạnh luôn có người của BCH TW. Một thời gian tôi đã muốn ăn cắp Anton và giấu cháu trong gia đình chị bạn người Triều Tiên và giả như đó là con của chị. Còn tôi sẽ đưa về nhà một cháu bé có bề ngoài đông phương khác trong trường hợp Lê Duẩn quyết định đưa cháu trai ra mà không có sự đồng ý của tôi. Nghĩ ra đủ phương án, nhưng không thực hiện được. Và lạy Chúa – tôi sợ trò phiêu lưu này sẽ làm tôi nguy đến tính mạng.

Vị cán bộ từ BCH TW, người đảm nhận liên lạc giữa tôi và gia đình Vũ Anh, đề xuất một giải pháp thỏa hiệp – tôi giữ các cháu gái cho mình, còn trao đứa cháu trai cho ông nó: “Cứ để nó sống ở Việt Nam vài năm, khi cháu lớn lên, họ sẽ trả cháu về. Ông lúc nào cũng có thể đến thăm người thân của vợ và gặp Anton”. Cuộc bầu cử mà Vũ Anh lo sợ đang sắp diễn ra. Xem ra nhóm thân Trung Quốc loan tin rằng không nên tin tưởng vào Lê Duẩn. Ông ấy không thể theo đường lối độc lập nếu cháu trai ông ấy đang bị Kremli giữ làm con tin. Trong cơn sóng gió trước bầu cử người của ta có thể bắt đi tất cả các đứa con của tôi, chỉ để giúp Lê Duẩn còn giữ được quyền lực. Tôi hứa sẽ suy nghĩ, cố kéo dài thời gian. Nhưng áp lực ngày một gia tăng. Họ đe dọa tôi bằng những điều bất tiện trong công tác. Người cán bộ nói anh ta đã biết “phương án Triều Tiên” – tức phương án bắt cóc con trai tôi với sự giúp đỡ của chị bạn người Triều Tiên. Tình thế trở nên nghiêm trọng. Bà ngoại Bảy Vân một lần đã nói thẳng: “Không muốn tốt – cũng chẳng cần”.

Chống đối tiếp tục đã thành vô nghĩa, và tôi quyết định phải có sự đảm bảo – soạn một tuyên bố chính thức về việc cho phép đưa con đi trong hai năm. Ở sân bay tôi đã khôn khéo lấy hộ chiếu của Anton từ nhân viên an ninh cửa khẩu, chụp ảnh tất cả các trang và đút trả lại. Bạn của tôi chụp ảnh ghi lại cuộc ra đi của thằng bé. Vào đúng ngày hôm ấy Lê Duẩn đến Moskva. Ông đã gặp Brejnev. Vì cuộc hội kiến này (có vẻ rất quan trọng) nên mới có sự vội vã như vậy.

Chẳng bao lâu tôi lăn ra ốm. Ban đầu là viêm phổi, sau đó phát hiện có một khối u. Nghi ngờ đến khả năng xấu nhất, nhưng rồi mọi việc cũng qua – khối u hóa ra lành tính. Tôi nằm viện khá lâu, Muội có đến thăm tôi. Chị chắc có nói chuyện với bác sĩ, biết về các chẩn đoán của tôi và kể cho những người thân biết. Những người này lập tức chạy vạy – nhờ cậy những người bạn xô viết nhờ nhận lại các cháu gái từ người cha “đang sắp chết”.

Nghĩ lại thấy thật đáng sợ, không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi không xuất viện đúng một ngày trước khi các thanh tra về công việc với vị thành niên đến nhà tôi. Một bà mặc sắc phục đại úy cảnh sát đến nhà với yêu cầu chính thức từ Ủy ban vùng – xem xét khả năng xác nhận đưa Elena và Tatiana Maslovye vào cơ sở nuôi dạy trẻ. Tôi không thể nói với bà ta toàn bộ sự thật, nhưng cho bà ta hiểu rằng trong câu chuyện này mọi việc không đơn giản, khuyên ta bà đừng vội vã.

Sau hai năm người ta vẫn không đưa Anton trở lại. Tối đấu tranh thêm hai năm nữa để họ cuối cùng đưa cháu trở lại Moskva. Tôi yêu cầu việc này với tất cả người thân của Vũ Anh. Cuối cùng Thành, em trai nàng bay sang Moskva. Chúng tôi gặp nhau và đã tìm được tiếng nói chung. Thành nói chuyện với Lê Duẩn, và ông ta quyết định đưa cháu trai về với cha nó và các chị. Nhưng con trai tôi trở về đã không phải với tên là Anton Maslov, mà là công dân Việt Nam Nguyễn An Hoàn và hộ chiếu Việt Nam. Lê Duẩn không có ý định trao cháu cho tôi. Ngược lại – ông hy vọng sẽ mang luôn cả các cháu gái về.

Con trai không nói được tiếng Nga, nó lạ tôi và không rời bà bảo mẫu người Việt đã nuôi cháu từ trứng nước. Ở Việt Nam Anton thực sự là hoàng tử: nó được ở cả một tầng nhà.

Tôi hi vọng sẽ thu xếp được với con trai, nhưng người bà Việt Nam bay sang, sau khi quyết định đi nghỉ lại Krưm tuyên bố rằng ở Moskva không tốt cho thằng bé. Sau kỳ nghỉ bà ta sẽ đưa cháu trở lại Việt Nam, còn tạm thời cần đưa cháu vào một nhà trẻ tốt trong suốt mùa hè. Bà ta sẽ cho phép tôi và các cháu gái tới đó. Trong cuộc nói chuyện của chúng tôi có mặt một cán bộ khá cao cấp của Ban quốc tế BCH TƯ, làm nhiệm vụ phiên dịch. Ông đã thấy tôi giận dữ như thế nào, và khuyên tôi đừng nổi cáu, cố gắng đạt được thỏa thuận với người bà quyền lực. Bắt cóc Anton thật vô nghĩa: cháu là công dân Việt Nam và họ sẽ ngay lập tức đưa cháu đi khỏi nhà tôi.

Nhưng tôi không có ý định đầu hàng. Bây giờ đã là thời khác, lãnh đạo đất nước Liên Xô không còn là Brejnev, mà là Gorbachev. Hơn nữa sau những năm tháng ấy tôi đã kịp trở thành Viện sỹ hàn lâm và được trao Giải thưởng Lenin. Tôi viết đơn yêu cầu trả lại con trai và đi khắp các cửa, không còn thiếu đâu nữa: Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao, BCH TƯ ĐCS LX. Khắp nơi người ta thông cảm với tôi, nhưng giúp đỡ thì đều từ chối. Họ nói rằng việc đó ngoài khả năng của mình. Một lần tôi chia sẻ với một chị bạn tốt – thư ký của Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học. Chị ấy khuyên tôi nên cầu cứu Anatolia Gromưco – con trai Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô Andrei Andreievich Gromưco, một người thân cận với Gorbachev, và chị ấy sẽ giúp thu xếp cuộc gặp này.

Gromưco-con là giám đốc Viện Phi châu thuộc Viện HL KH LX. Tôi kể cho anh nghe về câu chuyện của tôi và Anh, đưa cho anh xem các bức ảnh chụp cùng vợ con. Anatolia Andreevich tỏ ra cảm động. Anh nói: “Anh hãy viết đơn gửi cho chính Gorbachev. Tôi hứa rằng ông ấy sẽ nhận được và sẽ đọc. Nhớ kèm theo cả những bức ảnh, đặc biệt bức chụp cùng bọn trẻ này. Nó mạnh hơn bất kỳ bức thư nào”. Tôi làm theo những gì anh chỉ dẫn, và cùng với các bức ảnh tôi còn để cả bản tuyên bố của Vũ Anh viết năm 1978. Vài hôm sau không chờ đươc, tôi gọi điện cho Gromưco. Anh nói: “Họ đã biết quan điểm của anh”. Tất cả chỉ có thế. Tôi không biết sẽ phải nghĩ gì và hành động ra sao.

Để bà ngoại yên tâm, tôi thu xếp gửi Anton vào nhà trẻ của Cục 4, khá xa đatra của tôi. Tôi thỏa thuận với bà giám đốc rằng bà không được giao đứa bé cho ai, trừ tôi. Những người bảo vệ hứa sẽ gọi điện nếu thấy xuât hiện những “kẻ đột nhập” vào khu vực nhà trẻ. Tôi dúi cho họ bốn chai vodka Smirnov, hồi đó chỉ bán theo chỉ thị của nhà thờ, và họ nóng lòng chờ sự xuất hiện của “kẻ đột nhập Việt Nam”. Chẳng bao lâu sau kẻ đột nhập xuất hiện thật. Bảy Vân nhận được sự từ chối thẳng thừng và buộc phải rút lui. Nhưng giám đốc nhà trẻ nài nỉ tôi phải đưa Anton đi: “Tôi sẽ không chịu đựng được cuộc tấn công sau đâu. Anh không tưởng tượng được là chúng tôi đã căng thẳng ra sao đâu”.

Tôi nói chuyện với bạn bè, và họ tìm được cho chúng tôi một ngôi nhà ở Belorussia – ở tít tận xó rừng sâu Belovejskaia Pusia. Tròng vòng bán kính 5 km quanh đó không có ai cả. Chúng tôi ở đó chừng vài tháng – Lena, Tania, Anton, bà bảo mẫu của chúng, và tôi. Pusia quả thật là một chốn thiên đường. Lũ trẻ đến giờ còn nhớ khu rừng nguyên thủy, những bãi cỏ đầy nấm và quả rừng, có thể sờ tay vào lũ thú rừng và chim chóc. Lũ hươu kéo đến tận nhà, làm bà bảo mẫu sợ chết khiếp. Lũ bò rừng nhởn nhơ đi lại đằng xa. Anton trở thành một đứa trẻ khác hẳn khi ở Belorussia, chơi với các chị và bắt đầu nói một ít tiếng Nga.

Tôi không nhận được tin tức gì từ Moskva, nhưng hi vọng vào những điều tốt. Tôi nghĩ rằng Gorbachev không muốn có một Sakharov – viện sĩ – nhà bất đồng chính kiến thứ hai. Để giành lại các con, tôi sẵn sàng làm tất cả, kể cả một scandal quốc tế. Mấy tháng trôi qua tôi biết được từ một người bạn Việt Nam, gần gũi với gia đình của Vũ Anh, rằng Lê Duẩn đã từ bỏ ý định bắt cháu về. Ông nói: “Nếu cha chúng nó yêu chúng như vậy, thì cứ để chúng sống với anh ta”. Có vẻ hai nước đã đi đến một nhận thức chung về chuyện này, Gorbachev và Lê Duẩn đã thỏa thuận để gia đình chúng tôi được yên. Sự đau khổ của tôi kết thúc. Mấy năm sau Lê Duẩn từ trần.

Vào cuối những năm 80-90 tôi có dịp đi khắp thế giới. Với tư cách là giáo sư mời tôi đã giảng bài ở Mỹ, Anh, Pháp. Đất nước tôi hồi đó ở trong giai đoạn không dễ dàng gì. Khoa học thoi thóp, các nhà bác học được trả bằng xu, mà trong tay tôi – ba đứa trẻ. Cần phải kiếm tiền bằng cách nào đó. Nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ ở lại sống ở nước ngoài. Bọn trẻ luôn đi cùng với tôi, cũng như người vợ sau Irina. Chúng tôi cưới nhau năm 1991. Tôi quen Ira đã lâu, từ khi Vũ Anh còn sống. Cô ấy cùng tuổi với Vũ Anh. Ira là nhà ngôn ngữ, phó tiến sỹ khoa học. Sau khi Vũ Anh mất, giống như nhiều bạn bè và người thân của tôi, cô ấy đã giúp tôi trông nom bọn trẻ. Đối với tôi mối quan hệ của cô với chúng cũng quan trọng không kém tình cảm giữa chúng tôi. Ira là một phụ nữ đáng kinh ngạc. Sau khi cưới, cô ấy quyết định không sinh thêm một đứa con nữa, đứa con chung của chúng tôi, để không phải làm dì ghẻ, mà hoàn toàn thay Vũ Anh làm mẹ của Lena, Tania và Anton.

Các con tôi hiện sống ở nước ngoài, dù khi còn trẻ không dự định việc này và chúng đều vào học tại MGU mà không phải một trường đại học Tây phương nào đó. Nhưng về sau những dòng người có vẻ ngoài châu Á tràn vào Moskva. Và bắt đầu nảy sinh các vấn đề. Thí dụ đã xảy ra một chuyện không dễ chịu với Tania ở đatra. Một nhân viên cảnh sát, đến vì một chuyện hoàn toàn khác, tình cờ nhìn thấy cháu và cho rằng đấy là một người di cư bất hợp pháp từ Trung Á, và suýt nữa tôi bị cáo buộc vào tội “che giấu”.

Những tình huống như vậy khá nhiều, và không hề dễ chịu. Chúng tôi họp gia đình và quyết định rằng sẽ tốt hơn nếu đưa lũ trẻ sang châu Âu, ở đó đã quen với việc có nhiều sắc tộc. Kết quả là Tania và Anton sang sống ở Anh, còn chị cả Lena – ở Hà Lan. Cháu lấy chồng là người Hà Lan xuất thân từ một gia đình quý tộc tỉnh lẻ lâu đời. Chồng cháu là một người làm phân tích nghiệp vụ và có thời gian là khách hàng của một hãng máy tính của Anh, nơi Lena làm việc. Mối tình bắt đầu ở nước Anh.

Sau khi cưới đôi trẻ chuyển sang sống ở Hà Lan, trong một thị trấn nhỏ cách Amsterdam chừng một giờ đi xe. Lena là kiến trúc sư – lập trình, đã đạt được đỉnh cao nhất trong nghề. Cháu là một chuyên gia độc nhất, được đánh giá cao ở hãng, được tạo các điều kiện làm việc thuận lợi nhất. Lena có một con nhỏ – cháu sinh con gái Anna năm ngoái. Còn Tania năm nay sinh được cậu con trai Oskar. Tania tốt nghiệp MGU ở Moskva chuyên ngành “ngôn ngữ”, khi sang Anh thì chuyển nghề và, giống như Lena, làm về lập trình. Sống với chồng là người Anh ở thị trấn ngoại ô Bristol. Tania từ bé đã yêu súc vật và đem theo cùng mình đến Anh hai con chó và một con mèo. Anton tốt nghiệp MVK – khoa Toán học tính toán và điều khiển học MGU. Cháu cũng làm việc liên quan đến máy tính và ở không xa chị gái. Cậu chàng chưa cưới vợ, và tôi sợ sẽ còn lâu. Có vẻ cháu giống tính tôi.

Tất nhiên tôi sẽ vui mừng nếu có các con ở bên, chứ không phải cách xa hàng ngàn cây số. Nhưng cuộc sống là như vậy. Tôi vẫn trò chuyện với các con hàng tuần, qua Skype. Mùa hè nào chúng cũng trở về Nga và về ở Selinger, nơi chúng tôi có một căn nhà ngoại ô. Tôi và Ira sống phần lớn thời gian ở đatra. Ở đấy nghỉ ngơi và làm việc đều tốt. Tôi tiếp tục làm khoa học, điều đem lại cho tôi niềm vui lớn, tôi còn có nhiều công trình dở dang.

Tôi vẫn là nhân viên toàn thời gian của MIEM. Học viện đã được củng cố đáng kể, trở thành một phần của trường đại học – nghiên cứu “Trường Kinh tế Cao cấp”. Điều này hoàn toàn trùng hợp với các kế hoạch khoa học của tôi và cổ vũ trong tôi niềm say mê sáng tạo. Ngoài ra tôi còn là cộng tác viên khoa học của Viện các vấn đề cơ học – RAN và chủ nhiệm bộ môn thống kê lượng tử và lý thuyết trường tại khoa lý của trường MGU ruột thịt. Năm 2013 tôi nhận giải thưởng nhà nước lần thứ 3 do những đóng góp vào việc xây dựng cơ sở toán học cho ngành nhiệt động học hiện đại.

Khi làm việc, tôi luôn cảm thấy Vũ Anh đang nhìn mình. Trong phòng làm việc đã nhiều năm vẫn treo bức ảnh chân dung lớn của nàng. Tôi cảm thấy Vũ Anh hài lòng về cuộc sống của các con chúng tôi. Tuy rằng cái nhìn của nàng nghiêm nghị, nhưng theo tôi, có nét tán đồng. Tôi thường mơ thấy nàng, trẻ trung và hạnh phúc.

Đôi khi tôi có cảm tưởng rằng Vũ Anh không chết, nàng chỉ đang đi đâu đó. Có thời gian tôi đã nghĩ đến việc làm gì đó để vinh danh vợ: đến “với nàng” tại Việt Nam. Vào cuối những năm 90 tôi được mời dạy ở Hong Kong. Khoảng cách từ đó đến TP Hồ Chí Minh, nơi bà Bảy Vân sống, không quá xa. Nhưng sau khi suy nghĩ, tôi đã từ chối. Đối với bon trẻ, việc di chuyển đến Hong Kong có thể tạo nên stress lớn, cần phải thích nghi với khí hậu, nước uống, đồ ăn hoàn toàn khác biệt. Tôi sợ chúng sẽ bị ốm.

Về sau, khi đã trưởng thành, Lena, Tania và Anton đã hai lần về Việt Nam để gặp những người ruột thịt. Chúng được đón tiếp như các vương tôn công tử. Ở đất nước này người ta vẫn còn lưu giữ ký ức thiêng liêng về Lê Duẩn, giống như trong thời xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhớ về Lenin. Trong mỗi thành phố đều có các con phố hay quảng trường mang tên ông. Và các cháu của lãnh tụ được đối xử một cách trọng thị. Bảy Vân, bà vợ góa của ông vẫn còn sống. Bà nay đã gần chín mươi tuổi.

Anh giao phó cho tôi các con của chúng tôi. Nàng mong muốn các cháu sống ở Liên Xô và được giáo dục theo các truyền thống văn hóa Nga. Không có Ira tôi không thể thực hiện được sự ủy thác của nàng. Cái chính là bọn trẻ không lúc nào cảm thấy chúng là trẻ mồ côi. Và nếu không có Ira chúng không thể thấm nhuần văn hóa và tâm hồn của chúng ta. Do vậy chúng vẫn là những người Nga, cho dù sống ở đâu.




(Xem Phần 1 tại đây)


Nguyên bản tiếng Nga.
Dịch giả: Phan Độc Lập



(*) Tựa đề do Văn Việt đặt.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét